Tác giả:
Seigaku. Dịch giả: Hương Linh
Thể loại:
Kể chuyện dùng bữa trong Thiền viện
.
.
Khi nhìn
thấy bìa cuốn sách này và đọc được bài cảm nhận ngắn về nó, tôi biết ngay mình nhất
định phải mua nó. “Học ăn học nấu, thẩm thấu yêu thương” không phải một cuốn sách
dạy nấu ăn (dù trong sách có vài công thức nấu ăn), nội dung sách là lời kể của
Thiền sư Seigaku về “nghi thức dùng bữa” trong Thiền viện Eihei (Nhật Bản). Hầu
như phần quan trọng nhất trong sách là kể chuyện ăn uống của các tăng lữ trong Thiền
viện, qua đó nêu lên những bài học cuộc sống, những triết lý sống mà tác giả đã
giác ngộ được. Nghe có vẻ rất kỳ lạ, chuyện ăn uống phàm tục lại kết hợp với đời
sống tu Thiền thanh cao thoát tục, nhưng qua quyển sách này độc giả sẽ nhận ra
và hiểu rõ mối liên kết khít khao và kỳ diệu giữa hai việc này.
Thiền viện
Eihei do Thiền sư Dogen thành lập năm 1246, đến thời của tác giả Seigaku thì đã
trải qua 700 năm. Mọi cách thức sinh hoạt (đương nhiên kể cả việc nấu + ăn) đều
đã được duy trì suốt bảy thế kỷ, chỉ có vài thay đổi nhỏ cho phù hợp với thời đại
như thay vì ăn bằng tay thì chuyển sang dùng muỗng đũa. Thiền viện nằm trên núi,
các tăng lữ đều không có đồng hồ, mọi sinh hoạt đều dựa vào âm thanh như tiếng
chuông chùa, âm thanh đánh vào tấm đồng hình áng mây, chiếc trống trang trí hình
con cá, chiếc trống trang trí vân mây khổ lớn… Âm thanh của tấm đồng hình áng mây
là tín hiệu báo đã đến giờ ăn.
Khác với
hình dung của chúng ta khi xem các bộ phim TQ, Thiền viện ở Nhật không có nhà ăn
đầy bàn ghế với cảnh ồn ào náo nhiệt và tràn ngập hương vị kích thích bao tử. Đến
giờ ăn, các tăng lữ tập trung tại “Tọa thiền đường”, còn gọi là tăng đường, cũng
chính là nơi ngủ nghỉ của họ. Vâng, họ ngồi ăn ngay trên chính chiếc giường của
mình, lúc ngủ thì nằm trên một tấm chiếu tatami, lúc ngồi ăn thì ngồi kiểu tọa
thiền (tức là quỳ) trên nửa tấm chiếu tatami. Trong lúc chờ đợi các jounin (sư
thầy phụ trách dọn dẹp, nấu nướng, phân phát đồ ăn) đem thức ăn đến, các tăng lữ
sẽ bình tĩnh ngồi thiền. Trước – trong – sau khi ăn, cả tăng lữ và jounin đều đọc
khá nhiều bài kệ và thực hiện nhiều nghi thức cúi chào, cúi lạy, cúi đầu cảm ơn…
“Muỗng
cơm thứ nhất vừa ăn
Nguyện
cho tất cả ác nhân không còn
Muỗng
hai xin nguyện với lòng
Giúp người
tu thiện, tâm đồng thái hư
Muỗng
ba thực hiện tâm từ
Dắt dìu
muôn loại cùng tu đạo mầu”.
Bộ dụng
cụ dùng bữa của các tăng lữ thường được bọc trong tay nải (cũng là tấm vải sẽ
trải trên giường khi dùng bữa) và được treo ngay đầu giường hoặc đặt trong hộc
tủ đầu giường chung với các vật dụng cá nhân. Bộ dụng cụ dùng bữa gồm bộ bát lồng
nhau (ba cái từ lớn đến nhỏ), tấm lụa để trải (cũng là tay nải để gói lại), tấm
vải kê bát, tấm ngăn thấm nước, khăn lau, thanh lau bát, túi đựng muỗng đũa và
muỗng đũa. Các tăng lữ sẽ tự sắp xếp bộ dụng cụ này theo thứ tự quy định, mấy
trăm người đều sắp xếp đúng theo trật tự giống hệt nhau. Jounin chỉ làm việc tại
nhà bếp và phân phát thức ăn chứ không có nhiệm vụ dọn bàn và rửa chén. Bữa sáng
gồm cháo và muối mè, bữa trưa gồm cơm, một món canh, một món rau. Bữa tối gồm cơm
và món rau giống bữa trưa (làm một lần ăn cả ngày). Ngày nào cũng như ngày nấy
suốt cuộc đời tăng lữ. Tuy trong “Điển tọa giáo huấn” của Thiền sư Dogen không
có dòng nào ghi là “Không được sử dụng thịt cá” nhưng các bữa ăn tại Thiền viện
đều không dùng động vật.
“Món ăn
chay không phải là những món ăn không sử dụng đến thịt, mà là món ăn được tạo
ra bởi một trái tim đầy từ bi và ngập tràn tấm lòng khoan dung. Khoan dung là
thừa nhận sự thật rằng, tất cả mọi sự trên thế gian này đều tồn tại bằng cách hỗ
trợ và lệ thuộc lẫn nhau. Đừng phân biệt nguyên liệu nấu ăn, hãy cùng cố gắng hết
mình để tạo ra những món ăn thật ngon lành, làm thỏa mãn trái tim và tâm hồn của
những người sẽ ăn món ăn do mình làm nên”.
Khi các
tăng lữ ăn xong, jounin sẽ đem nước trà đến để các tăng lữ tự rửa bát bằng
thanh rửa bát (là thanh gỗ được quấn vải một đầu), nước trà rửa bát xong sẽ được…uống
luôn. Tiếp theo, jounin đem nước nóng đến để rửa bát lần hai, nước nóng này dùng
xong sẽ được đổ lại vào xô và mang ra đổ trả lại cho sông suối, không hề lãng
phí một giọt nước nào. Bằng cách dùng nước trà và nước nóng để rửa bát, Thiền
viện giảm bớt lượng hóa chất cần dùng. Sau khi các tăng lữ ăn xong, gạo sống được
đem ra rải trên một tảng đá để chim muông cũng được dùng bữa như con người. Đọc
đến chi tiết đó, tôi thắc mắc không biết Thiền viện có nuôi chó mèo không.
Đọc cuốn
sách này, có thể nhiều người sẽ cho rằng “nghi thức dùng bữa” của Thiền viện là
quá nhiêu khê rắc rối, người bình thường không thể làm theo, đang đói muốn chết
mà còn phải quỳ cầu nguyện và cúi lạy chín lần để cảm ơn cho bữa ăn ít ỏi mình
nhận được vân vân… nhưng tôi nghĩ mình đã hiểu được phần nào nguyện vọng của tác
giả Seigaku khi truyền đạt lại nghi thức dùng bữa này trong một quyển sách.
Nguyện vọng ấy đã được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách đến nỗi tôi chắc
chắn sẽ nhớ lâu đến mấy mươi năm nữa:
“Cho dù
chỉ là việc nhỏ và đơn giản đi nữa, chỉ cần thay đổi cách nhìn dành cho việc dùng
bữa, thế giới trước mắt mà bạn vẫn cảm thấy dường như nó quá rộng lớn và đầy rẫy
những khó khăn, sẽ thay đổi hoàn toàn”.
Tôi cho
rằng ý chính mà tác giả muốn nói là mong mọi người ăn uống chậm rãi với lòng trân
trọng và biết ơn. Biết ơn đến cả cái chén gỗ, cái giẻ lau bàn sau khi ăn, cái
thùng rác trong bếp (thùng rác được các tăng lữ gọi là “chiếc hộp bảo vệ cái đẹp”);
biết ơn những người mình không biết mặt đã nuôi trồng nên thực phẩm trên bàn ăn
của mình, biết ơn những người đã đi chợ, nấu và dọn cho mình những bữa ăn nóng
sốt đầy đủ dinh dưỡng… Khi tràn ngập lòng biết ơn và tận hưởng những điều tưởng
như bình thường nhất, tâm của ta sẽ tìm được chút an yên giữa cuộc đời giông bão
này.
Vốn là
một người thích nấu ăn, tôi nhận ra từ lâu mình đã thực hiện khoảng 70% những điều
được viết trong sách, giờ đọc xong và cố gắng làm theo 30% còn lại thì chắc chứng
bệnh OCD của tôi sẽ càng trầm trọng. Thế nhưng, tác giả Seigaku nói rằng sắp xếp
vật dụng trật tự sẽ chứng tỏ một tâm hồn thanh tịnh không rối loạn, cho nên tôi
sẽ ráng giữ mọi thứ sạch sẽ tinh tươm, để trái tim tôi luôn được thanh khiết.
“Học ăn
học nấu, thẩm thấu yêu thương” không phải là một trong những cuốn sách hay nhất
tôi từng đọc, cũng không phải một trong những cuốn sách tôi thích nhất, nhưng nó
sẽ được xếp vào một trong những cuốn đã bước vào đời tôi đúng thời điểm nhất, lúc
tôi cần nó nhất. Cuốn sách này giống như một vị Thiền sư xa lạ với ánh mắt nhân
từ thấu hiểu đã đến bên cạnh và cho tôi những lời ủi an khi tôi cảm thấy trống
rỗng (trống rỗng như lúc Santiago biết Kim Tự Tháp nằm cách cậu mấy ngàn km sa
mạc). Cuốn sách nhỏ chỉ có 220 trang nhưng bìa cứng và có sợi dây đỏ đánh dấu
trang, bên trong có những nét vẽ minh họa dễ thương và dễ hiểu của Kikue
Tamura. Tôi nghĩ “nghi thức dùng bữa” này cũng giống như tu thiền, ta có thể thực
hành suốt nhiều năm tháng nhưng vẫn thấy không có gì thay đổi, nhưng trong lúc
ta không hay biết, sự thay đổi theo chiều hướng tích cực đã thấm sâu vào bản chất
của ta, đến một lúc nào đó khi ta giác ngộ, thì ta đã hoàn toàn thoát khỏi những
điều cũ kỹ buồn phiền và trở thành một phiên bản mới tốt hơn, biết cách hài lòng
và tha thứ cho chính mình.
“Hãy sống
như thế nào mà mỗi hành động trong ngày của chúng ta đều là những hành động của
yêu thương”. (Thích Nhất Hạnh)
(Sea,
9-4-2020)
https://www.youtube.com/watch?v=P_F-7x3UbEM